.
 
Trang ChínhGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

Share | 
 

 BÀi LÀM MÔN ĐỊA TỔ HAI

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
nh0ckute_27_12_1995
-- Members Elite 
-- Members Elite 
nh0ckute_27_12_1995

Posts : 19
Points : 27
Thanked : 2
Join date : 08/09/2011
Age : 28
Đến từ : viet nam

BÀi LÀM MÔN ĐỊA TỔ HAI Empty
Bài gửiTiêu đề: BÀi LÀM MÔN ĐỊA TỔ HAI   BÀi LÀM MÔN ĐỊA TỔ HAI I_icon_minitime19/9/2011, 7:23 pm

Câu 3 : Các siêu cường kinh tế tìm cách áp đặt lối sống và nền văn minh của mình đối với các nước khác. Các giá trị đạo dức của nhân loại được xây dựng hàng chục thế kỉ nay đang có nguy cơ bị xói mòn

Bài làm



Siêu cường là một quốc gia đứng hàng thứ nhất trong hệ thống quốc tế và khả năng gây ảnh hưởng tới những sự kiện và phô trương sức mạnh trên phạm vi toàn thế giới; siêu cường thường được coi có mức quyền lực cao hơn Cường quốc. Thuật ngữ này được sử dụng lần đầu tiên năm 1943 để chỉ Liên bang Xô viết, Hoa KỳĐế chế Anh. Sau Thế chiến thứ hai, Đế chế Anh dần mất ảnh hưởng, tan rã và Liên bang Xô viết cùng Hoa Kỳ được coi là hai siêu cường duy nhất trong cuộc Chiến tranh Lạnh.

Hiện nay, đa số giới truyền thông và hàn lâm thế giới cho rằng chỉ mỗi Hoa Kỳ đáp ứng đủ tiêu chuẩn để được coi là siêu cường.

Trung QuốcẤn Độ có lẽ là những nước có tiềm năng lớn nhất để trở thành một siêu cường hay một quốc gia gần đạt tới mức này trong thế kỷ 21 và cũng thường được gọi là các siêu cường đang nổi lên.

Liên minh Châu Âu có sức mạnh kinh tế tương đương Hoa Kỳ nhưng thiếu một sức mạnh quân sự thống nhất. Vì thế, một số người cho rằng dù đã thống nhất về mặt chính trị, liên minh này có thể hoặc là một siêu cường đang nổi lên hay đương nhiên đã có vị trí một siêu cường, tuỳ theo quan điểm của từng người. Tuy nhiên, như được đề cập ở trên, đa số giới truyền thông và hàn lâm cho rằng chỉ mỗi Hoa Kỳ đủ tiêu chuẩn nắm giữ danh hiệu siêu cường.

Tuy nhiên, những người khác nghi ngờ sự cùng tồn tại của các siêu cường khi cho rằng tình hình thị trường toàn cầu phức tạp và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các nước trên thế giới đã khiến quan niệm về một siêu cường trở nên lỗi thời và tình thế chính trị thế giới hiện nay là đa cực

Nguồn gốc

Thuật ngữ "siêu cường" đã được sử dụng để miêu tả các quốc gia có vị thế lớn hơn vị thế cường quốc ngay từ đầu thập niên 1930, nhưng nó chỉ mang nghĩa đặc trưng để chỉ Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết sau Thế chiến thứ hai[8].

Thuật ngữ theo nghĩa chính trị hiện nay đã được đặt ra trong cuốn sách Các Siêu cường, do William Thornton Rickert Fox, một giáo sư về chính sách đối ngoại Hoa Kỳ tại Đại học Columbia viết năm 1943. Fox đã sử dụng từ ngày để xác định một phạm trù mới về quyền lực ở mức cao nhất có thể đạt được trong một thế giới theo đó, như cuộc chiến tranh xảy ra khi đó đã chứng minh, các quốc gia có thể thách thức và chiến đấu với nhau trên tầm vóc quốc tế. Theo ông, (ở thời điểm đó) có ba quốc gia siêu cường: Hoa Kỳ, Liên bang Xô viết và Đế chế Anh.

Cuộc khủng hoảng Kênh đào Suez đã làm sáng tỏ một điều rằng, Đế chế Anh, về kinh tế đã bị tàn phá sau hai cuộc chiến tranh thế giới, không còn có thể cạnh tranh ở mức độ ngang bằng với Liên bang Xô viết và Hoa Kỳ mà không hy sinh bớt những nỗ lực tái thiết của mình, thậm chí khi cùng cộng tác với PhápIsrael. Vì thế, Anh đã trở thành đồng minh mạnh nhất, thân cận nhất và quan trọng nhất của Hoa Kỳ, luôn sát cánh bên họ trong Chiến tranh Lạnh, chứ không còn tư cách một siêu cường nữa.

Nhờ đa phần các trận đánh trong Thế chiến thứ hai đều diễn ra ngoài xa lãnh thổ của mình, nền công nghiệp Hoa Kỳ không bị phá huỷ, số lượng thương vong không lớn, trái ngược với tình hình của các quốc gia Châu Âu hay Châu Á. Trong chiến tranh, Hoa Kỳ đã xây dựng được một cơ sở hạ tầng công nghiệp và kỹ thuật vững mạnh có ảnh hưởng lớn giúp nước này có được sức mạnh quân sự hàng đầu trên phạm vi thế giới.

Sau chiến tranh, hầu như toàn bộ Châu Âu phải đi theo hoặc Hoa Kỳ hoặc Liên bang Xô viết. Dù có những nỗ lực nhằm tạo lập các liên minh đa quốc gia hay các cơ quan luật pháp (như Liên hiệp quốc), dần dần Hoa Kỳ và Liên Xô ngày càng chứng tỏ rõ sức mạnh thống trị về chính trị và kinh tế của họ trong cuộc Chiến tranh Lạnh bắt đầu diễn ra, và họ có cái nhìn rất khác nhau về thế giới thời hậu chiến. Điều này được phản ánh qua các liên minh quân sự là khối NATOKhối Warszawa. Các liên minh này cho thấy hai quốc gia đó là một phần của một thế giới lưỡng cực đang thành hình, trái ngược với thế giới đa cực trước đó. Một số quốc gia đã tiến hành nhiều chương trình nhằm có được vị thế "siêu cường" độc lập của riêng họ, như việc phát triển các loại vũ khí hạt nhân của Anh Quốc, Pháp và Trung Quốc, và nắm được vai trò "một bên tham gia trong vũ đài thế giới."

Ý tưởng cho rằng thời kỳ Chiến tranh Lạnh chỉ xoay quanh hai khối, hay thậm chí hai quốc gia, đã bị một số học giả thời hậu Chiến tranh Lạnh bác bỏ, họ đã chỉ ra rằng thế giới lưỡng cực chỉ tồn tại nếu ta bỏ qua không quan tâm tới toàn bộ những phong trào và những sự xung đột xảy ra mà không có sự ảnh hưởng từ bất cứ một bên được gọi là siêu cường nào. Hơn nữa, đa số các cuộc xung đột giữa các siêu cường đều là những cuộc "chiến tranh ủy nhiệm", là những sự kiện thường hay xảy ra hơn nhiều so với những vấn đề không can thiệp vốn phức tạp hơn rất nhiều so với những sự đối lập Chiến tranh Lạnh tiêu chuẩn.

Sau khi Liên bang Xô viết giải tán đầu thập niên 1990, thuật ngữ Siêu cường quốc (hyperpower) bắt đầu được áp dụng để chỉ Hoa Kỳ, với vai trò siêu cường duy nhất còn tồn tại sau thời Chiến tranh Lạnh. Thuật ngữ này, được bộ trưởng Ngoại giao Pháp Hubert Védrine đưa ra trong thập niên 1990, tuy nhiên việc xếp hạng Hoa Kỳ như vậy vẫn còn đang gây tranh cãi. Một người phản đối lý thuyết này Samuel P. Huntington, ông ủng hộ lý thuyết cân bằng quyền lực đa cực.

Đã từng có những nỗ lực nhằm áp dụng thuật ngữ siêu cường cho những thực thể trong quá khứ như Đế chế Ba Tư, Đế chế La MãĐế chế Anh; tuy nhiên giá trị hiệu lực của chúng còn bị tranh cãi, vì thế chúng không được phổ biến rộng rãi

Những đặc điểm của một siêu cường

Các tiêu chí về một siêu cường không được định nghĩa chính xác, và vì thế chúng có thể khác nhau tùy theo từng nguồn, nhưng những yếu tố sau thường được coi là có tầm quan trọng lớn.

Quân sự

Khả năng thể hiện sức mạnh trên thế giới. Trong thế giới hiện đại, điều này đòi hỏi không chỉ một lực lượng quân sự mạnh (là cái nhiều nước có), mà còn có khả năng vận chuyển đường biển, đường không để triển khai và cung cấp hậu cần cho lực lượng quân sự đó nhằm tăng cường lợi ích quốc gia cũng như có được sự ủng hộ của dân chúng cho hành động đó.

Văn hoá

Ảnh hưởng văn hóa mạnh mẽ, "quyền lực mềm". Ảnh hưởng văn hóa ngụ ý một lĩnh vực triết học và ý thức hệ phát triển.

Địa lý

Diện tích to lớn đất hay biển thuộc quyền kiểm soát của họ. Lãnh thổ cho phép một quốc gia khai thác tài nguyên và trồng cấy nông nghiệp, tăng khả năng tự cung tự cấp. Đây là một yếu tố quan trọng trong chiến tranh, bởi nó cho phép các khả năng như rút lui, tái hợp và tái tổ chức, cũng như đặt các trạm radar và bệ phóng tên lửa ở xa - thậm chí một nước giàu nhưng có lãnh thổ nhỏ cũng dễ bị tổn thương hơn trong chiến tranh.



Những siêu cường hiện nay





Thế giới thời hậu chiến được đa số người coi là một thế giới đa cực, với Hoa Kỳ là siêu cường duy nhất còn lại trên thế giới, sở hữu nền kinh tế lớn nhất và sức mạnh quân đội cao nhất. Sự ước định chính trị toàn cầu hiện nay không thể được đơn giản hóa một cách dễ dàng, bởi sự khó khăn trong việc xếp hạng Liên minh Châu Âu ở giai đoạn phát triển hiện nay của nó. Hơn nữa, nhiều người cho rằng EU vẫn đang bị đánh giá dưới tầm[9], trong khi những người khác cho rằng khái niệm một siêu cường đã không còn hợp thời trong thời điểm phụ thuộc kinh tế toàn cầu phức tạp ở thế kỷ mới và đề xuất lý thuyết thế giới đa cực[1][2][3][4][5][6][7][10].

Nga, thực thể thừa kế chính thức của nhà nước Liên bang Xô viết, vẫn còn giữ được một số năng lực của một siêu cường, như kho vũ khí hạt nhân khổng lồ, dân số đông, lãnh thổ lớn nhất thế giới với sự phong phú các nguồn tài nguyên chiến lược, và khả năng phát triển các kỹ thuật quân sự và vũ trụ hiện đại.

Một số nhà phân tích cho rằng lý thuyết ổn định bá chủ giải thích khuynh hướng hiện nay trong quan hệ quốc tế. Các quốc gia bá chủ thường có khuynh hướng thể hiện quá mức sức mạnh của mình, và các đối thủ khác sẽ dần trở nên mạnh hơn, cuối cùng thay thế hay trở thành đối trọng với nước bá chủ đã suy yếu đó. Một số người tin rằng điều này cuối cùng sẽ xảy ra trong tương lai gần
Tài Sản của nh0ckute_27_12_1995
Về Đầu Trang Go down
Sir.PK
--- Military Ban ---
--- Military Ban  ---
Sir.PK

Posts : 57
Points : 91
Thanked : 3
Join date : 08/09/2011
Age : 29

BÀi LÀM MÔN ĐỊA TỔ HAI Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: BÀi LÀM MÔN ĐỊA TỔ HAI   BÀi LÀM MÔN ĐỊA TỔ HAI I_icon_minitime19/9/2011, 7:54 pm

Pomxitin rang lam nha
Tài Sản của Sir.PK
Tài sản đang có
Sở hữu:



Được sửa bởi Sir.PK ngày 20/9/2011, 7:45 pm; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
killervinney0612
--- Site-Military Ban ---
--- Site-Military Ban  ---
killervinney0612

Posts : 97
Points : 126
Thanked : 4
Join date : 09/09/2011
Age : 28
Đến từ : Bà Rịa-Vũng Tàu

BÀi LÀM MÔN ĐỊA TỔ HAI Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: BÀi LÀM MÔN ĐỊA TỔ HAI   BÀi LÀM MÔN ĐỊA TỔ HAI I_icon_minitime19/9/2011, 8:28 pm

Các giá trị đạo dức của nhân loại được xây dựng hàng chục thế kỉ nay đang có nguy cơ bị xói mòn.
Vì các siêu cường kinh tế tìm cách áp đặt lối sống và nền văn minh của mình đối với các nước làm cho các giá trị đạo đức của nhân loại dược xây dựng hàng chục thế kỉ nay có nguy cơ bị xói mòn. Ngoài ra, văn hóa phương Tây và Phương Đông khác nhau, cụ thể là văn hóa phương Tây thoải mái hơn, ít cổ tục, tập quán hơn. Trong quá trình toàn cầu hoá, các nước liên kết với nhau (người nước ngoài du nhập vào) sẽ bị ảnh hưởng lẫn nhau, nhất là Châu Á rất hay bị ảnh hưởng bởi Châu Âu, vậy nên các giá trị đạo đức sẽ bị xói mòn.
=>cái này tao lấy trên mạng đóa
Tài Sản của killervinney0612
Tài sản đang có
Sở hữu:

Về Đầu Trang Go down
nh0ckute_27_12_1995
-- Members Elite 
-- Members Elite 
nh0ckute_27_12_1995

Posts : 19
Points : 27
Thanked : 2
Join date : 08/09/2011
Age : 28
Đến từ : viet nam

BÀi LÀM MÔN ĐỊA TỔ HAI Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: BÀi LÀM MÔN ĐỊA TỔ HAI   BÀi LÀM MÔN ĐỊA TỔ HAI I_icon_minitime19/9/2011, 8:47 pm

Văn hóa là nền tảng vô cùng quan trọng của một quốc gia. Không có một nền văn hóa riêng, đậm đà bản sắc dân tộc, Việt Nam sẽ bị lẫn lộn với các nước khác, đặc biệt là những nước lân cận ở Đông Nam Á và những nước chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc.

Trong bài viết này xin mạn phép được nhắc đến một thuật ngữ còn khá mới mẻ ở Việt Nam ngày nay: “xuất khẩu văn hóa”. Thiết nghĩ, khi chúng ta quảng bá nền văn hóa của mình ra thế giới bên ngoài một cách tích cực cũng có nghĩa là chúng ta đã góp phần bảo tồn và phát huy được nó. Hàn Quốc chính là một ví dụ tiêu biểu. Thông qua báo đài, và hơn hết là phim ảnh, Hàn Quốc đã rất thành công trong việc tiếp thị nền văn hóa giàu bản sắc của mình. Trong các bộ phim Hàn Quốc, hình ảnh những người phụ nữ muối kim chi, nấu canh giá, rong biển hay ăn bánh bột cay truyền thống xuất hiện thường xuyên nhưng tinh tế, không ngượng ngập.

Trông người lại nghĩ đến ta. Đã đến lúc chúng ta nghĩ đến một chiến lược nghiêm túc, lâu dài về việc “xuất khẩu” nền ẩm thực, ngôn ngữ cũng như phong tục tập quán của mình sang các nước Âu Mỹ. Cần nhìn nhận một cách trung thực rằng nền điện ảnh, âm nhạc Việt Nam hiện nay chưa thật sự lớn mạnh và gây ấn tượng nên những cách mà Hàn Quốc đã áp dụng nói trên sẽ không mấy hiệu quả đối với chúng ta.

Việt Nam nên đi theo con đường của riêng mình. Cần tập trung phát triển ở một số lĩnh vực mà chúng ta có thế mạnh:

Ẩm thực

Trước khi giới thiệu các món ăn Việt Nam, chúng ta cần nhấn mạnh cho họ thấy những điểm nổi bật, tạo nên sự khác biệt của nền ẩm thực Việt Nam so với các nước khác. Một trong những đặc điểm đó là các gia vị được nêm nếm hài hòa, dễ ăn, chua, cay, mặn, ngọt đều có đủ - tạo cảm giác ngon miệng và làm tôn lên mùi vị đặc trưng của món ăn.

Ngoài ra, trong các món ăn Việt Nam luôn xuất hiện nhiều loại rau trái thiên nhiên và sử dụng ít dầu mỡ, rất tốt cho sức khỏe.

Chúng ta nên tự hào rằng các món ăn Việt Nam được chế biến một cách đa dạng, không món nào giống món nào. Có thể chia món ăn Việt Nam thành nhiều nhóm chính. Ở đây ta chỉ nên tập trung vào các nhóm món ăn nổi bật, không bị trùng lặp hoặc có nguồn gốc từ các nước khác trên thế giới. Ví dụ như nhóm các món giò chả, nem (giò lụa, giò thủ, chả quế, chả mực, chả cá, nem chua…), nhóm các món bánh (bánh tét, bánh chưng, bánh xèo, bánh khọt, bánh bèo, bánh nậm), nhóm các món phở, bún, miến.

Khi thưởng thức các món ăn theo nhóm như vậy, bạn bè quốc tế sẽ ồ lên kinh ngạc vì tính đa dạng đến bất ngờ nhưng vẫn nằm trong một thể thống nhất của các món ăn Việt Nam. Thực khách sẽ chọn cho mình món ăn riêng yêu thích, nhưng khi giới thiệu với bạn bè, người thân, họ sẽ không quên nhắc đến những món khác trong cùng nhóm đó.

Nếu biết khéo léo tổ chức các chương trình liên hoan, tuần lễ ẩm thực Việt ở trong và nước một cách đồng bộ, liên tục sẽ đem lại hiệu quả rất lớn đối với ngành du lịch. Khi đó trong mắt du khách, Việt Nam không những là điểm đến thân thiện, an toàn mà còn là thiên đường của các món ăn ngon, tốt cho sức khỏe.

Thời trang

Từ lâu thế giới đã biết đến áo dài như là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Việt. Đó là một thế mạnh mà ta cần phải phát huy. Bên cạnh tổ chức và tham gia các sự kiện thời trang trong nước và quốc tế, chúng ta cần thiết lập một hệ thống các cửa hàng áo dài thống nhất về kiểu dáng và chất lượng để khách nước ngoài muốn may áo dài không gặp nhiều khó khăn. Những địa chỉ này nên được dăng tải trên các website quảng bá du lịch Việt Nam bằng nhiều thứ tiếng khác nhau.

Áo dài có thể được cách điệu một chút cho hợp với phong cách hiện đại ngày nay. Nhưng cũng nên chú ý đừng “góp phần phá hoại” nó bằng cách hôm thì cắt đi hai tay áo, còn hôm khác lại làm cho nó có thêm rất nhiều tà. Làm như thế không những không làm cho chiếc áo dài trở nên đẹp hơn mà còn bóp méo hình ảnh thuần khiết và truyền thống của chiếc áo này trong mắt bạn bè thế giới.

Ngôn ngữ, phong tục, tập quán

Về mảng quảng bá ngôn ngữ, phong tục tập quán, nền tảng tư tưởng, ta nên học theo cách mà các nước như Anh, Pháp, Đức đã áp dụng từ lâu – lập ra các Viện trao đổi văn hóa ở khắp nơi trên thế giới. Anh có British Council, Pháp có I.D.E.C.A.F và Đức có Goethe Institute. Còn nhớ cách đây không lâu, Trung Quốc còn chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề này mà nay các học viện Khổng Tử đã ngày càng gia tăng với tốc độ chóng mặt tại khắp các châu lục. Bước đầu, nên thành lập những viện văn hóa với quy mô vừa ở thủ đô các nước có quan hệ văn hóa, chính trị, thương mại truyền thống với Việt Nam như Mỹ, Pháp, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc...

Ở các viện văn hóa Việt Nam, tiếng Việt sẽ được đề cao và giảng dạy một cách trực quan, sinh động cho những ai yêu mến, muốn tìm hiều về Việt Nam. Ngoài chương trình giảng dạy chính thức, vào giờ học ngoại khóa ta có thể cho học viên xem cải lương, tuồng, chèo, ca trù, kịch nói để họ có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam hay tham gia các khóa học nấu ăn món Việt Nam.

Ở các quốc gia láng giềng Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Trung Quốc, xuất khẩu văn hóa đã và đang là chủ trương hàng đầu của chính phủ. Bây giờ vẫn chưa quá muộn nếu chúng ta bắt tay vào xây dựng một chiến lược lâu dài và bền vững cho vấn đề này bằng cách thành lập ủy ban quốc gia về truyền bá văn hóa trong và ngoài nước. Lợi ích trước mắt chúng ta có thể thu được là thúc đẩy ngành du lịch phát triển hơn nữa để có thể cạnh tranh với các nước trong khu vực.Vể lâu dài đây sẽ là nguồn “sức mạnh mềm” có thể giúp Việt Nam phát huy tầm ảnh hưởng của mình trên khu vực cũng như toàn thế giới.
Tài Sản của nh0ckute_27_12_1995
Về Đầu Trang Go down
nh0ckute_27_12_1995
-- Members Elite 
-- Members Elite 
nh0ckute_27_12_1995

Posts : 19
Points : 27
Thanked : 2
Join date : 08/09/2011
Age : 28
Đến từ : viet nam

BÀi LÀM MÔN ĐỊA TỔ HAI Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: BÀi LÀM MÔN ĐỊA TỔ HAI   BÀi LÀM MÔN ĐỊA TỔ HAI I_icon_minitime19/9/2011, 8:55 pm

VIỆT NAM TRƯỚC THẾ CHIẾN LƯỢC CỦA CÁC SIÊU CƯỜNG

<p><p><p>Việt Nam là một dân tộc co một nền văn hiến gần 5000 năm lịch sử, một nền văn hiến kỳ cựu trong các nền văn kiến kỳ cựu nhất trên thế giới. Chính nền văn hiến kỳ cựu này đã soi đường dẫn lối cho cha ông chúng ta, trải qua bao thăng trầm lịch sử, vẫn kiên cường đấu tranh bảo vệ đươc giống nòi, bảo vệ được tổ quốc.
<p>Trong quá trình gần 5000 năm dựng nước và giữ nước, tuy phải trải qua bao thăng trầm, vinh nhục, nhưng chưa bao gìờ dân tộc ta phải sống trong kìm kẹp, nghèo khổ, tủi nhục và lầm than, xã hộI băng hoại, vô đạo như dưới chế độ cộng sản ngày hôm nay.
<p>Quá trình chiến đấu bảo vệ đất nước, chống ngoại xâm, cũng như khởi nghĩa đánh đuổi ngoạI xâm ở phương Bắc dành lại độc lập, chủ quyền; hoăc qua các cuộc kháng chiến chống Pháp dành độc lập, tự do… Tổ tiên, cha ông chúng ta đã chứng tỏ được ý chí sắt đá, tinh thần đoàn kết một lòng, cũng như óc sáng tạo tuyệt vời, và dã đem lại chiến thắng vinh quang cho dân tộc.
<p>Sự nghiệp chiến đấu chống ngoại xâm, khởI nghĩa, kháng chiến dành độc lập, chủ quyền ngày xưa tuy rất gian khổ và đòi hỏi hy sinh nhiều xương máu, nhưng kẻ xâm lăng hay cai trị là ngoại bang. Cuộc diện cuộc chiến luôn luôn mang tính chất cục bộ và khu vực…Cuộc chiến mà dân tộc ta đã, đang và sẽ tiếp tục chiến đấu và phải chiến thắng là một cuộc chiến cực kỳ cam go, giảo quyệt và cạm bẫy. Kẻ xâm lăng và cai trị không phải là ngoại bang, mà là chính ngườI Việt Nam đã mất hết nhân tính Việt Nam… Cuộc diện cuộc chiến hoàn toàn không mang tính chất cục bộ và khu vực, mà ngược lại nó luôn luôn bị chi phối và ảnh hưởng bởI các chiến lược toàn cầu của các siêu cường.
<p>Thực vậy, hoàn cảnh đất nước chúng ta nói riêng và thế giới ngày nay nói chung đã thay đổi hẳn. Do sự tiến bộ của vượt bậc của khoa học và kỹ thuật. Thế giớI hầu như đã thu nhỏ lại. Các nhà làm chính sách kinh tế, chính trị, tài chánh và quân sự…của các siêu cường luôn luôn nhìn sự việc dưới góc độ toàn cầu. Bất cứ nhà hoạt động chính trị, làm chính sách kinh tế nào mà không có cái nhìn đó, ắt hẳn họ phải thất bại, dân tộc họ phải chuốc lấy vạ lây.
<p>Một cường quốc kinh tế như Nhật Bản, nhưng chỉ vì các nhà lãnh đạo chính trị không có cái toàn cầu, nền kinh tế của Nhật đã trải qua giai đoạn có nguy cơ xụp đổ. Đến nỗi trước đó ông Norio Ohga, chủ tịch công ty điện tử Sony đã phải đã phải lên tiếng cảnh cáo rằng: “ Ngày nay chúng ta đang hoạt động kinh doanh trên bình diện thế giới, nhưng các chính trị gia vẫn chỉ hành động trong phạm vi quốc nội. Tôi mong họ phải hiểu biết hơn về thế giới.”
<p>Vơí nước Nhật còn như thế ! Vậy còn chúng ta thì sao? Chắc chắn cuộc chiến đấu dẹp bỏ chế độ độc tài, đem lại tự do, dân chủ, nhân quyền, phú cường và hạnh phúc cho dân tộc ta ngày hôm nay khó khăn hơn hẳn cuộc chiến đấu chống ngoạI xâm, dành độc lập, chủ quyền từ đế quốc phương Bắc và thực dân Pháp ngày xưa.
Vì vậy, muốn chiến đấu và chiến thắng cuộc chiến này, chúng ta phải am tường, hiểu biết toàn diện. Nói rõ hơn, chúng ta phải có cái nhìn toàn cầu về đường lối và chiến lược của các siêu cường đối với thế giới, đối với các khu vực và đối với các quốc gia v.v…để qua đó, chúng ta tương kế, tựu kế nương theo chiến lược của họ, lợi dụng thời cơ tiến hành thàng công sự nghiệp giải phóng quê hương khỏi ách thống trị độc tài tàn bạo cộng sản, đem lại tự do, dân chủ, nhân quyền, phú cường và hạnh phúc cho toàn dân.
Tài Sản của nh0ckute_27_12_1995
Về Đầu Trang Go down
nh0ckute_27_12_1995
-- Members Elite 
-- Members Elite 
nh0ckute_27_12_1995

Posts : 19
Points : 27
Thanked : 2
Join date : 08/09/2011
Age : 28
Đến từ : viet nam

BÀi LÀM MÔN ĐỊA TỔ HAI Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: BÀi LÀM MÔN ĐỊA TỔ HAI   BÀi LÀM MÔN ĐỊA TỔ HAI I_icon_minitime19/9/2011, 8:57 pm

Việt Nam trước ảnh hưởng của Siêu Cường và Đại Cường
Việt Nam trước ảnh hưởng của Siêu Cường và Đại Cường


Lê Thành Nhân


Từ khi Liên Bang Sô Viết sụp đổ, thế lưỡng cực Tư Bản-Cộng Sản không còn, nhờ ưu thế quân sự, kinh tế và chính trị Hoa Kỳ trở nên dẫn đầu thế giới. Trung Quốc cố vươn lên thay thế vị thế của Liên Sô đối lực với Hoa Kỳ với chủ trương thế giới đa cực (Multi-Polar International Order). Sau nhiều năm chuẩn bị, Trung Quốc trở thành một đại cường và đang thách thức với siêu cường Hoa Kỳ hiện nay trên bình diện khu vực Châu Á Thái Bình Dương và có thể cả thế giới sau này. Đại cường tuy thua kém siêu cường nhiều mặt nhưng có thế “địa chính trị” liền núi, liền sông với Việt Nam, còn siêu cường tuy mạnh nhưng ở xa, rất xa Việt Nam.
Chúng ta có thói quen nhìn sự tranh chấp thế giới trong thời kỳ chiến tranh lạnh, thiết nghĩ đó là một cái nhìn quá xưa, thiếu cập nhật, không hợp thời đại. Sau chiến tranh lạnh, cả đại cường lẫn siêu cường đều có những chiến lược mới để bành trướng thế lực, duy trì ảnh hưởng và đem lợi nhuận về cho quốc gia của họ. Sự thay đổi lớn lao đó chắc chắn sẽ ảnh hưởng sâu rộng đến Việt Nam. Thử đánh giá sự chuyển hướng của đại cường Trung Quốc và siêu cường Hoa Kỳ ảnh hưởng như thế nào đến Việt Nam ngày nay.

Vài nét lịch sử thế giới sau đệ II thế chiến năm 1945:

Sau đệ nhị thế chiến thế giới chia làm hai, khối Warsaw của các nước Cộng Sản Châu Âu do Liên Sô cầm đầu, khối NATO lãnh đạo bởi Hoa Kỳ, một khối thứ ba gọi là khối không liên kết (không liên kết với Cộng Sản lẫn Tư Bản), khối này không có trọng lượng bởi vì kinh tế, quân sự yếu và các thể chế chính trị không đồng nhất giữa các quốc gia trong cùng khối.
Sau khi Cộng Sản Liên Sô sụp đổ năm 1991, thế giới lưỡng cực Tự Bản-Cộng Sản không còn, với ưu thế quân sự, kinh tế và chính trị, Hoa Kỳ có một sức mạnh vô địch hiện nay, nhưng nếu cho rằng Hoa Kỳ đang lãnh đạo thế giới đơn cực thì không chỉnh vì Hoa Kỳ phải đối diện với nhiều thử thách cam go trước mắt với một khối Âu Châu thống nhất, với Trung Quốc đang trên đà lớn mạnh và đang có những liên minh to lớn như SCO (Shangai Cooperation Organization) giữa Trung Quốc-Nga Sô và các quốc gia Trung Á.

Sự hình thành những thế lực kinh tế mới:

Mặc dù chiến tranh lạnh chấm dứt, khối quân sự Warsaw tan rã, một số quốc gia trong khối Warsaw (Poland, Hungary, Romania) xin gia nhập khối NATO. Nhiều người tự hỏi, tại sao khối Warsaw không còn mà duy trì khối NATO nhằm mục đích gì? Từ năm 1991 đến nay, trong 15 năm NATO chỉ làm có một việc là giải phóng Kosovo, từ đó danh từ NATO càng ngày càng lu mờ nhường chỗ cho các khối liên hợp kinh tế xuất hiện càng ngày càng quan trọng trên các diễn đàn quốc tế. Những khối kinh tế mậu dịch được dựng lên trong kế sách “toàn cầu hóa” (globalization) như khối ASEAN(Associate South East Asian, gồm 10 nước ở Đông Nam Châu Á là Indonesia,Thailand, Philippine, Singapore, Malaysia, Miến Điện, Việt Nam, Cambodia, Lào, Brunei), Khối Thị Trường Chung Châu Âu (EU), Khối Kinh Tế Bắc Mỹ (NAFTA) v.v..

Vĩ tuyến 17 của Việt Nam thời nào là lằn ranh quân sự trong chiến lược Domino của Hoa Kỳ để “be bờ” Trung Quốc vào trong đại lục châu Á, nay trước toàn cầu hóa, lằn ranh đó đã mất thay vào Việt Nam là một thành viên của khối ASEAN!

Bạn và thù giữa Việt Nam và khối khối ASEAN:

Sau khi chiếm trọn miền Nam ngày 30-04-1975, CSVN bắt tay với Nga Sô để làm đầu cầu bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản, có thể nói Việt Nam là một thành viên của khối Warsaw nối dài tại Đông Nam Á, CSVN lệ thuộc vào Nga Sô hoàn toàn trên mọi lãnh vực từ kinh tế, chính trị, xã hội, quân sự…. Năm 1978, Việt Nam đem quân xâm lăng Cambodia thì khối ASEAN chia làm hai, một bên là Việt-Miên-Lào nhận sự viện trợ của Liên Sô, các nước trong khối ASEAN còn lại được hậu thuẩn bởi Trung Cộng, Hoa Kỳ, Nhật Bản và các quốc gia Tây Phương. Điểm đáng lưu ý là sự liên kết Việt-Sô xâm lăng Cambodia và Afghanistan đã thúc đẩy Hoa Kỳ liên kết với Trung Quốc để chống lại sự xâm lăng của Liên Sô. Khi CSVN xâm lăng Cambodia, khối ASEAN, Nhật Bản, Úc Đại Lợi, Hoa Kỳ hoàn toàn cô lập và cấm vận Việt Nam, trong khi đó Thái Lan là một quốc gia đồng minh với Hoa Kỳ lại tiếp tay với Trung Quốc để cung cấp vũ khí cho Khmer Đỏ chống lại Việt Nam (1), đây là thời gian thuận tiện để Trung Quốc gần gũi với khối ASEAN. Sự tấn công của Trung Quốc vào các tỉnh biên giới Bắc Việt Nam năm 1979 được khối ASEAN yểm trợ và đồng ý của Hoa Kỳ.

Năm 1989 Liên Sô bắt đầu rút quân khỏi Afghanistan, Việt Nam cũng bắt đầu rút quân khỏi Cambodia. Năm 1991, CSVN hoàn tất việc rút quân khỏi Cambodia, Lào, và giảm quân số xuống thấp còn một nữa. Trong khoản thời gian này, Hoa Kỳ cũng rút quân khỏi căn cứ quân sự Subic Bay ở Philippine. Sự tái phối trí quan trọng này đã xoá đi những họng súng chĩa thẳng vào nhau và đã ảnh hưởng lớn đến quan hệ mới giữa CSVN và các nước trong khối ASEAN. Quả thật, ngày 29/08/90, đại sứ Trung Cộng tại Việt Nam, Trương Đức Huy vào gặp Tổng Bí Thư CSVN Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười để chuyển thông điệp mời gặp bí mật Giang Trạch Dân và Lý Bằng tại Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên trong hai ngày 03&04-09-1990 (2). Cuộc gặp gỡ này đã mở đầu cho sự bình thường hóa bang giao giữa Trung Quốc-Việt Nam vào năm 1991, sau gần 16 năm thù địch, đồng thời khối ASEAN bắt đầu hết cô lập Việt Nam, Nhật Bản bắt đầu đầu tư và viện trợ cho Việt Nam. Một thời điểm quan trong nhất đối với Việt Nam là năm 1995, trở thành hội viên thứ 7th của khối ASEAN; và bình thường hoá bang giao với Hoa Kỳ.

Từ đó CSVN lần mò vào thế giới tư bản làm “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” để sống còn. Trong cơn mê sảng, CSVN vẫn mắt nhắm, mắt mở duy trì Chủ Nghĩa Xã Hội để cố bám độc quyền thống trị, nhưng lại ngã tay xin tiền các nước tư bản Tây Phương để xóa đói giảm nghèo, qua những viện trợ béo bở này cán bộ CSVN bòn rút trở thành những tên tư bản đỏ. Lợi dụng địa bàn chiến lược cha ông để lại, khi nghiêng qua siêu cường Mỹ cậy thế, khi luồng cúi đại cường Tàu dâng đất, nhường biển để duy trì quyền lực, lừa phỉnh đồng bào và lừa gạt thế giới là CSVN có đường lối ngoại giao “làm bạn với tất cả thế giới” để ru ngũ quần chúng và mờ mắt quốc tế hầu xin tiền viện trợ kéo dài sự thống trị của đảng CSVN. Trong suốt gần 5000 năm của lịch sử dân tộc, sự ra đời của đảng CSVN thì chính đó là niềm bất hạnh của dân tộc, vì rằng đảng CSVN thống trị Việt Nam bằng máu và nước mắt. Họ dùng máu xương của con dân làm công cụ bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản, và nước mắt của đồng bào rơi thành suối lệ vì sự cai trị độc tài tàn bạo của họ. CSVN không ngừng đưa dân tộc Việt Nam từ cuộc chiến này sang chiến tranh khác, cứ mỗi một cuộc chiến đảng CSVN lại được sơn son thếp vàng bằng những biểu ngữ quang vinh với những chiếc huy chương đỏ chói trong sự khổ đau cùng cực của toàn dân Việt, và rồi đây lịch sử lại phải lên án những vết nhơ của những cuộc chiến không cần thiết ấy! Ngày nay, trước thế kỷ thứ 21th, đảng CSVN chuẩn bị đại hội 10, họ vẫn còn hôn mê, vẫn “kinh tế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa” lạc loài. Trong khi thế giới đang chuyển hướng bởi những bước đi ngoạn mục không ngừng nâng cao đời sống và giá trị con người, thì đảng CSVN vẫn duy trì mô thức chính trị lỗi thời và lạc hậu: Xã Hội Chủ Nghĩa!!

Hướng đi của thế giới ngày nay:

Từ giữa thập niên 1995, thế giới đang thiết kế một mô hình mới cho hợp với tình hình chung sau chiến tranh lạnh. Theo học giả Carl Thayer, chuyên viên Đông Nam Á của viện quốc Phòng Hoàng Gia Úc, thì Châu Á-Thái Bình Dương sẽ bị thay đổi lớn bởi vì sự chuyển hóa của thế giới qua những vấn đề sau:
Một là: “toàn cầu hóa” (globalization) ở đó thế giới phụ thuộc vào nhau về vốn đầu tư, trao đổi vật chất và phục vụ con người, đời sống nhân công nâng cao, trao đổi tin tức và kỹ thuật để cùng thăng tiến. Trong vài thập niên tới “toàn cầu hóa” sẽ nâng cấp cuộc sống con người, số người trung lưu nhiều thêm, nhiều vùng trên thế giới sẽ trở nên phồn thịnh, đặc biệt các quốc gia đang lên trong lãnh vực kỹ thuật cao.
Hai là: Sau khi chấm dứt sự xâm lăng của Liên Sô tại Afghanistan và cuộc chiến của Hoa Kỳ đánh Iraq lần đầu tại Kuwait năm 1991, và lần thứ hai lật đổ chế độ Sadam Hussein vào năm 2002, châm ngòi cho các tổ chức Hồi Giáo cực đoan phát động cuộc chiến khủng bố toàn cầu. Cuộc chiến chống khủng bố này khó có thể chấm dứt trong một thời gian ngắn và có thể kéo dài cả hàng vài chục năm sau.
Ba là: Trong khoảng thời gian 20 năm tới đây, Hoa Kỳ có thể giữ được vị thế siêu cường, tuy nhiên vị thế đó sẽ bị thách thức trước sự lớn mạnh của Trung Quốc và Ấn Độ, đồng thời những nhóm chống siêu cường Mỹ càng ngày càng tăng cường khả năng chế vũ khí giết người hàng loạt. Liệu rằng Hoa kỳ có thể thực hiện toàn cầu hoá trước một thế giới đầy biến động?

Thế giới đang đứng trước những thách đố lớn lao như thế thì sự phân định lại lằn ranh an ninh của thế giới chắc chắn sẽ thay đổi, những ưu tiên về an ninh của thế giới sẽ bị đảo ngược, chiến lược của siêu cường phải soát xét lại toàn bộ. Những liên minh kinh tế và quân sự cần kiểm điểm lại cho hợp với chiến lược mới. Sự lớn mạnh của Trung Quốc và Ấn Độ (hai quốc gia có nền kinh tế đang lên và dân số khổng lồ), sự va chạm giữa Nhật-Trung, giữa Trung-Mỹ sẽ thay đổi dáng dấp và hình thù của khối ASEAN, trong vòng 10 đến 20 năm tới tình hình chính trị, kinh tế Việt Nam nhất định sẽ thay đổi lớn.

Trước tình hình thế giới như vậy, đại cường Trung Quốc vạch ra năm chiến lược, và siêu cường Hoa Kỳ vạch ra tám chiến lược trong vùng Châu Á Thái Bình Dương như sau:

Năm chiến lược của đại cường Trung Quốc (3)

• Cũng cố an ninh nội bộ Trung Quốc, ngăn chận sự ly khai của Tây Tạng và Tân Cương, sáp nhập Đài Loan vào Hoa lục.
• Tăng cường an ninh khu vực đặc biệt các quốc gia chung quanh Trung Quốc (các nước khối ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản, các nước Trung Á)
• Tăng cường nền kinh tế đang lên hiện nay để cung cấp công ăn việc làm cho dân, nâng cao đời sống của dân hầu ngăn ngừa sự nổi loạn từ trong lòng quần chúng;
• Tái dựng (restore) và phát triển nền chính trị mang tính truyền thống (Hán Tộc) nâng cao uy thế trên chính trường ngoại giao; Và
• Phát triển thế giới đa cực để ngăn ngừa sự bao vây và cô lập của siêu cường Hoa Kỳ.

Tám Điểm Chiến Lược Của Hoa Kỳ tại Châu Á Thái Bình Dương:

Năm 2002, gần một năm sau biến cố 9/11, Tổng Thống George W. Bush đưa ra tám điểm chiến lược an ninh châu Á-Thái Bình Dương như sau (4)

• Đấu tranh cho những ước vọng và phẩm giá con người;
• Thắt chặt các liên minh để đánh bại chủ nghĩa khủng bố toàn cầu;
• Tháo gỡ ngòi nổ các cuộc xung đột trong khu vực;
• Ngăn chận không cho kẻ thù dùng vũ khí hủy diệt hàng loạt để đe dọa chúng ta, các đồng minh và bạn bè chúng ta;
• Mở ra một kỷ nguyên phát triển kinh tế tòan cầu thông qua các thị trường tự do và thương mại tự do;
• Mở rộng phát triển thông qua các xã hội mở và hạ tầng của nền dân chủ;
• Phát triển những chương trình hợp tác các trung tâm quyền lực toàn cầu;
• Cải tổ các thể chế an ninh quốc gia nhằm đối phó với những thách thức của thế kỷ thứ 21.

Năm chiến lược Trung Quốc và tám chiến lược của Hoa Kỳ ở Châu Á Thái Bình Dương có rất nhiều điểm xung khắc tồn tại to lớn, nếu mỗi bên không tự kiềm chế thì chiến tranh có thể bùng nổ. Nhìn chung thì năm chiến lược của Trung Quốc đang trong thế thủ và chỉ mở rộng bành trướng giới hạn trong khu vực đối với các nước xung quanh Trung Quốc trong đó có Việt Nam - và có thể VN là một vùng đất quan trọng trong tầm nhìn của thế lực bành trướng Trung Quốc. Còn tám chiến lược của Hoa Kỳ ở thế chủ động tấn công vào thành trì của Trung Quốc. Mặc dù không nói rõ sự chống đối lẫn nhau, nhưng mỗi chiến lược đều chứa đựng những mâu thuẫn có thể tạo nên sự tranh chấp giữa Hoa Kỳ-Trung Quốc ở châu Á-Thái Bình Dương. Hiện nay, những tranh chấp đó đôi khi ngầm ngầm, nhưng đôi khi cũng ra mặt bởi những bài bình luận trên báo chí Trung Quốc hoặc ngay trên các diễn đàn hội nghị quốc tế. Rõ ràng Việt Nam đang đứng giữa các chiến lược của đại cường và siêu cường.

Để thực hiện tám chiến lược của Hoa Kỳ đã đưa ra ở trên, các nhà hoạch định sách lược để thực hiện kế sách an ninh của Tổng Thống Hoa Kỳ đưa ra năm 2002 luôn luôn đặt vấn đề: Làm thế nào để ổn định những an ninh lâu dài ở khu vực châu Á Thái Bình Dương để có lợi cho Hoa Kỳ? Đối phó với một Trung Quốc đang lớn mạnh như thế nào để hai bên đều có lợi? Làm thế nào để thuyết phục Nhật Bản đóng vai trò an ninh quan trọng hơn trong khu vực? và Hoa kỳ phải làm như thế nào để hình thành một cơ cấu an ninh mới, lâu bền và hiệu quả hơn trong việc hành xử các vấn đề an ninh khu vực Đông Á?

Khi các nhà chiến lược Hoa Kỳ đặt ra những vấn đề khó khăn như trên, thì chắc chắn rằng họ cũng tìm cách tháo gỡ những khó khăn và phải vượt qua những cản trở để thực hiện chính sách của họ. Những khó khăn đó được tập trung trong những vấn nạn như sau:
• Sự tồn tại các chế độ CS tại Châu Á (Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn) là mối trở ngại lớn, vì những biến tướng của nó càng ngày trở nên chủ động và nguy hiểm.
• Sự ưu tiên của thế giới ngày nay không phải là ưu tư của cuộc chiến ý thức hệ mà là sự ưu tư an ninh hàng đầu là việc phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, khủng bố, nhập cư trái phép, buôn bán ma túy, khi chức năng thay đổi thì đồng minh cũng thay đổi và nó đã chuyển dịch từ các mối quan tâm địa chính trị (trong chiến tranh ý thức hệ) sang mối quan tâm theo chức năng và nhiệm vụ mới.
• Việc xử dụng kinh tế để giải quyết các vấn đề an ninh quốc gia như Nam Hàn đã xử dụng kinh tế để chuyển mối quan hệ với Bắc Hàn, họ chuyển dần từ đối đầu trong chiến tranh lạnh một mất một còn sang tồn tại một cách hòa bình nhờ vào viện trợ kinh tế, mặc dù ở trong tình trạng vẫn còn đề phòng lẫn nhau (5).
• Việc ảnh hưởng của Hoa Kỳ suy giảm khá nhiều đối với an ninh khu vực châu Á-Thái Bình Dương, bởi vì sau Chiến Tranh Lạnh các quốc gia đồng minh của Hoa kỳ ở Đông Nam Á không còn phụ thuộc nhiều vào Hoa Kỳ, đương nhiên càng ngày họ càng chủ động tìm kiếm những lợi ích an ninh riêng cho mình mà không đúng theo đường lối của Washington (như Thailand, Philippine, Nam Hàn là một ví dụ).
• Và cuối cùng là vai trò lớn mạnh của Trung Quốc đối với an ninh khu vực.

Để giải quyết những nan đề trên, từ thập niên 1990, Tổng thống George Bush (cha) và đến tổng thống Clinton đều dùng chiến lược “đối tác” (engagement) làm ăn với Trung Quốc (China first), họ lý luận rằng Liên Sô và các nuớc CS Đông Âu sụp đổ, là do sức ép liên tục về kinh tế và chính trị từ các nước tự do Tây Phương đứng đầu là Hoa Kỳ, trận chiến này gọi là “diễn biến hoà bình” (Peacefull evolution). Do đó họ muốn đem áp dụng vào các nước CS còn sót lại tại châu Á. Lập luận của họ cho rằng nâng cao mức sống của người dân Trung Quốc từ đó có nhiều người trở thành giai cấp trung lưu và đó là điểm đột phá cho một thể chế chính trị dân chủ. Có lẻ nhận định của những người làm chính sách dưới thời này đồng ý với David C. Kang rằng “theo lịch sử, thì chính sự suy yếu của Trung Quốc đã dẫn đến bất ổn ở Á Châu. Khi Trung Quốc lớn mạnh và ổn định thì trật tự lại được vãn hồi” (6)

Năm 2000, khi George Bush (con) trở thành tổng thống Hoa Kỳ, những chiến lược gia của Washington ở vòng trong (Inner Circle) là thành phần “tân bảo thủ” (Ngoại trưởng Condoleezza Rice, Donal Rumsfeld, Dick Cheney, John Bolton, Paul Wolfowitz), đã hoạch định chính sách an ninh của Hoa Kỳ chủ yếu lại thiên về mối lo ngại một Trung Quốc lớn mạnh và những thách thức có nguy haị đến lợi ích của Hoa Kỳ trong khu vực Đông Á (7). Trước khi có biến cố 9/11 xẩy ra, Hoa Kỳ xem Trung Quốc là mối lo ngại an ninh hàng đầu, nên chính sách của Hoa Kỳ là kiềm chế không cho phép Trung Quốc thay đổi tình trạng hiện thời tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đặc biệt tình trạng eo biển Đài Loan; chính sách này được giới quan sát tây phương cho là “đối đầu” (containment), Báo cáo quốc phòng 4 năm một lần, ám chỉ rằng Ngũ Giác Đài có ý định tăng cường lực lượng quân sự tại Tây Thái Bình Dương thông qua việc tăng cường hàng không mẫu hạm, cũng cố vị trí đóng quân của không quân Hoa Kỳ trong vùng, và tăng cường Thủy quân lục chiến trong vùng trách nhiệm (Cool. Trong khi đó quan hệ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ hoàn toàn cắt đứt sau vụ chiếc máy bay thám thính Hoa Kỳ EP-3 đụng chiến đấu cơ của Trung Quốc ngày 1-04-2001. Nếu kế hoạch này được áp dụng, thì Việt Nam có nằm trong tầm nhìn quan trọng chiến lược của Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, thảm họa 9/11/2001 xảy ra, buộc các nhà hoạch định Hoa Kỳ dù có “tân bảo thủ” bao nhiêu cũng phải xét lại các chính sách của mình để triển khai cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu đang được đặt lên ưu tiên hàng đầu của Mỹ, cho nên Washington cần phải tìm kiếm sự hợp tác của Trung Quốc trong cuộc chiến chống khủng bố và vấn đề phi hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Quả vậy, sau biến cố 9/11 một tháng, vào tháng 10/2001, Tổng Thống Bush viếng thăm Trung Quốc đã tuyên bố tại Thượng Hải rằng Hoa Kỳ cố gắng phát triển mối quan hệ với Trung Quốc trong tinh thần “thẳng thắn, xây dựng và hợp tác”. Trong khi vẫn tiếp tục hỗ trợ quân sự cho Đài Loan và xây dựng chiến lược kiềm chế Trung Quốc.

Các chiến lược gia Hoa Kỳ nghĩ rằng trong tình huống quốc gia đang tuyên chiến với khủng bố, áp dụng thuần nhất “đối đầu” hoặc “đối tác” với Trung Quốc vô cùng tai hại và đầy bất trắc. Nếu Hoa Kỳ dùng thuần chiến lược “đối tác” (engagement) thì chẳng khác gì đang nuôi con hổ trước cửa, nhưng nếu cứng nhắc trong chiến lược “đối đầu” (containment) thì sự va chạm bùng nỗ có thể xẩy ra lúc này rất bất lợi, do đó một danh từ mới được Tiến Sĩ Zalmay Khalizad (nay là đại sứ Hoa kỳ tại Iraq và là thành viên cố vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Bush) cho ra đời với cái tên là “congagement” nói lên chính sách cần thiết vừa “đối đầu” vừa “đối tác”. Trong cuộc chiến chống khủng bố, Hoa Kỳ dùng chính sách ngoại giao “đối tác” do đó được Trung Quốc hợp tác đáng kể trong lãnh vực chia xẻ tin tức tình báo và giải quyết vấn đề vũ khí hạt nhân ở Bắc Hàn, nhưng Trung Quốc cũng đang lợi dụng sự bận tâm của Hoa Kỳ ở Afghanistan và Iraq đã chủ động trong những liên minh quân sự với Nga Sô, gây ảnh hưởng với các nước ASEAN và lấn dần vùng ảnh hưởng đối với các nước Trung Á. Trước những biến chuyển đó, gần đây Hoa Kỳ đã đẩy mạnh những liên minh quân sự hợp tác Mỹ-Nhật (10/2005) và Mỹ-Nam Hàn (1/2006) có lẻ Hoa Kỳ đang xoay qua mối lo ngại về sự lớn mạnh của Trung Quốc?

Với một Trung Quốc ngày nay như một mũi nhọn thọc thẳng vào khối ASEAN, họ đã thành công trong vấn đề “đồng tiền đi trước, chính trị bước theo” đó là “dùng sức mạnh một cách nhẹ nhàng, uyển chuyển” (soft power) thay vì dùng chính sách hù dọa như thập niên 1990 khi Trung Quốc xâm chiếm các đảo trên vùng biển phía Nam.

Việt Nam đang đứng ở đâu trước toàn cầu hoá?

Ngày nay Việt Nam đang dưới sự “lãnh đạo” độc quyền, ôm nước trọn gói (không cho ai xen vào, theo điều 4 Hiến Pháp của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam), sở dĩ chúng ta phải nhắc điều này để sau lịch sử sẽ quy trách nhiệm hoàn toàn cho đảng CSVN. Việt Nam với khẩu hiệu thật kêu “ngoại giao chuyển hướng với nhiều nước” (multilateralization and diversification of relation), mặc dù có đặt tòa đại sứ với nhiều nước thật nhưng chỉ để làm công việc “đáp lễ” hơn là có một chính sách ngoại giao sâu rộng và hợp tác đúng mức, bởi vì ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam trùm trên mọi lãnh vực, đã ngăn chận không cho phép CSVN rộng quyền liên hệ mật thiết với các cường quốc tây phương (9) (điều này như chúng ta đã biết, đáng ra Hoa Kỳ đã chấp nhận cho Việt Nam vào WTO trước đây, nhưng Việt Nam phải đi xin phép Trung Quốc nên để mất cơ hội). Trong sự tồn vong của dân tộc, ước vọng dân tộc Việt Nam có một chỗ đứng dưới ánh sáng mặt trời, Việt Nam ngày này đang đứng ở đâu trước “toàn cầu hoá” đang “lãnh đạo” (lãnh đạo trong ngoặc kép) bởi chế độc độc tài CSVN:

1. Lịch sử thế giới đã hai lần chứng minh Đệ Nhất và Đệ Nhị thế chiến, cứ sau một cuộc đại chiến chấm dứt, bản đồ an ninh thế giới được vạch lại, các cường quốc chuyển hướng mới. những nước nhỏ không tự chủ động lấy vận mạng của mình sẽ liên tục rơi vào quỹ đạo của cường quốc trong trận thế mới. Đảng CSVN ngày nay, sau khi chấm dứt Chiến Tranh Lạnh hết chạy theo chân Liên Sô và rồi nay “lẽo đẽo” theo Trung Quốc cho rằng “Trung Quốc trụ được, ta trụ được” (Lê Khả Phiêu, thời còn làm TBT đảng CSVN). CSVN xem Trung Quốc là “mô hình” phát triển của Việt Nam, nhưng rất tiếc, CSVN chỉ “bắt chước” nhưng không có một người có tầm cỡ như Đặng Tiểu Bình, cho nên Trung Quốc đi mười bước mà Việt Nam chưa đi được một. Hơn thế nữa, khi người “thầy” Trung Quốc đang dùng đủ mọi mưu đồ “đánh gục” anh “học trò” Việt Nam (báo cáo của TS Lê Đăng Doanh trước Bộ Chính Trị CSVN) thì liệu rằng CSVN lãnh đạo đất nước này sẽ đi về đâu?

2. Thế giới ngày nay đang thành lập các khối liên hợp kinh tế, những khối này có quyền lợi gắn chặt vào nhau, và bảo vệ nhau. Nếu một khối ASEAN lớn mạnh về kinh tế, vững vàng về quân sự sẽ là đối tác quan trọng và bình đẳng với Trung Quốc và siêu cường trên thế giới. Nếu khối ASEAN yếu kém nó sẽ trở thành “kẻ nô lệ mới” cung cấp vật liệu và tiêu thụ hàng hoá Trung Quốc. Việt Nam là thành viên của khối ASEAN, một ASEAN hùng mạnh sẽ là cơ sở cho Việt Nam phát triển kinh tế và chính trị trong vùng. Việt Nam hiện nay như là cái “cửa ngõ” lưu thông xuống ASEAN của 1.3 tỉ dân Tàu với đường rầy cao tốc xây từ cảng Hải Phòng đi Trung Quốc, với biên giới không cần kiểm soát, xe qua lại ngày đêm như xa lộ, càng ngày kinh tế càng lệ thuộc vào Trung Quốc. CSVN vẫn đầu óc tôn thờ “anh Hai”, sợ gần gũi với những quốc gia ASEAN dưới thể chế tự do dân chủ sẽ bị “diễn biến hoà bình” xâm nhập. Như vậy về lâu về dài Việt Nam chẳng khác gì con nhái bị con trăn Trung Quốc nuốt dần. Không thể chần chờ được nữa, Việt Nam cần thể chế chính trị dân chủ và kinh tế thị trường giao thương “mạnh” với các nước ASEAN và các cường quốc Âu Mỹ để tránh hiểm họa Bắc Triều.

3. Trong những năm lại đây, CSVN gặp khó khăn trong việc bang giao với Hoa Kỳ và các nước tây phương, cũng như xin gia nhập WTO. Những trở ngại chính là đang nuối tiếc gia tài Cộng Sản chưa chịu dứt bỏ. Nếu không chịu từ bỏ Chủ Nghĩa Xã Hội không tưởng đó, thì nó là thứ độc dược giết chết sự phát triển tương lai của dân tộc và đó là những vật cản trở cho hương phát triển đất nước. Muốn hội nhập vào thế giới tây phương đang đi trên xa lộ “tòan cầu hóa” thì luật lệ minh bạch, làm ăn thẳng thắn, dẹp nạn tham nhũng và nhất là bỏ đầu óc thủ cựu “lẽo đẽo” chạy theo làm chư hầu. Ngày nay CSVN đang đưa dân tộc vào tử lộ vì đang chạy ngược trào lưu của thời đại.

4. Sự lớn mạnh của quân đội Trung Quốc hiện nay, bắc buộc Việt Nam và các nước trong Đông Nam Á đang tranh chấp các đảo trong vùng biển Đông phải tăng cường quốc phòng. Hiện nay, vẫn đường mòn lối cũ quân đội Việt Nam cứ tiếp tục mua những vũ khí lỗi thời của khối Cộng làm sao giữ được tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của CSVN đất nước nhất định sẽ không đủ khả năng tự vệ khi cò một cuộc xâm lăng xẩy ra. CSVN không đủ tư cách và khả năng lãnh đạo đất nước trước “toàn cầu hóa”, vì tương lai của dân tộc toàn dân vùng lên giải trừ chế độ độc tài xây dựng một thể chế chính trị dân chủ pháp trị tại Việt Nam.

5. Mô hình kinh tế và chính trị của Trung Quốc đang tiến tới cuối đường hầm không lối thoát, họ phải lượng giá trở lại để tìm lối ra. Sau hơn một phần tư thế kỷ đổi mới, mô hình Trung Quốc không giải quyết được những bế tắc của ngân hàng và hệ thống tài chánh, các công ty quốc doanh nợ nầng chồng chất đang trên đà phá sản. Nội bộ đang đối đầu với nền chính trị bất ổn (một ngày có 240 vụ biểu tình); tham nhũng lan tràn. Chắc chắn Việt Nam đang đối diện với những nan đề y hệt như vậy, những vụ khiếu kiện đất đai, những vụ biểu tình vì bất công áp bức của chủ công ty nước ngoài đun tiền hối lộ cho quan chức Việt Nam để tự do bóc lột công nhân. Tham nhũng lan tràn thành quốc nạn v.v.. Những chế độ “độc quyền chính trị” mà lại “mở cửa kinh tế thị trường” chẳng khác gì đang lái chiếc xe chạy khập khễnh một bánh, khi xe chạy đến một tốc độ nào đó nhất định sẽ bị “sụp đổ”. CSVN nhất định sẽ sụp đổ.

6. Lịch sử các nước trên thế giới cho thấy rằng: khi mở cửa kinh tế thị trường, và nhất là khi gia nhập vào WTO, giai cấp trung lưu sẽ xuất hiện nhanh chóng, bao nhiêu người đã sống và làm việc trong chế độ tự do dân chủ nước ngoài sẽ xuất hiện, những hội đòan độc lập phải được hoạt động trong nước, các dân tộc thiểu số đòi quyền sống, lớp trẻ ở nông thôn hấp thụ đời sống mới càng đông…tất cả sẽ đóng góp vào tiến trình đòi thay đổi thể chế chính trị tự do dân chủ không đảo ngược được. Việt Nam chắc chắn sẽ không thoát ra ngoài những ngoại lệ ấy. Trước một toàn cầu hóa hiện nay, đây là những vận hội mới cho dân tộc, những người đấu tranh nên chụp lấy thời cơ động viên toàn lực để giải trừ chế độ độc tài CSVN hiện nay.

7. Một trong những phương tiện của toàn cầu hóa là dùng “xa lộ điện tử” (hệ thống Internet) cánh cửa mở rộng cho tất cả mọi người trên thế giới dù bất cứ ở đâu, quốc gia nào cũng có thể tìm hiểu để mở mang kiến thức, nâng cao trình độ khoa học, kỹ thuật. Làm thế nào đất nước có thể phát triển được khi CSVN vì muốn bảo vệ chế độ độc tài đã kiểm soát hệ thống Internet chặt chẽ, điều này chẳng khác gì CSVN bế quan trí tuệ, phong tỏa kiến thức. Trí tuệ và kiến thức là những điều cần và đủ cho sự phát triển kinh tế và hoàn thiện xã hội. Vậy thử hỏi rằng CSVN có đủ khả năng và sáng suốt để xây dựng Việt Nam trong thời đại “toàn cầu hóa” này không?

Đại Cường hoặc siêu cường đưa ra chiến lược hoặc chiến thuật nào cũng vì quyền lợi của chính quốc gia họ, ta không thể theo để ngữa tay xin ban ơn quyền lợi cho quốc gia mình, Việt Nam phải tự có những đột phá mới, một hướng đi sáng tạo, phải có nền chính trị phù hợp với toàn cầu hóa bảo đảm sự tin cậy của thế giới mới nhập vào giòng lưu của thời đại được. Vá víu, nhào nặng một chế độ đã hỏng chỉ tạo nên những dị dạng khó nhìn, và đầy nghi ngờ trước một thế giới đầy văn minh chắc chắn sẽ đưa dân tộc đến đường hầm tăm tối của thế kỷ 21.
Tài Sản của nh0ckute_27_12_1995
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content




BÀi LÀM MÔN ĐỊA TỔ HAI Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: BÀi LÀM MÔN ĐỊA TỔ HAI   BÀi LÀM MÔN ĐỊA TỔ HAI I_icon_minitime

Tài Sản của Sponsored content
Về Đầu Trang Go down
 

BÀi LÀM MÔN ĐỊA TỔ HAI

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
º)))) .·´¯`·. (A2) ¸.·´¯`·.¸ ((((º :: =-{ Bài Viết Các Thành Viên 11A2 }-=-
Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất